Chi trả tiền gửi được bảo hiểm là biện pháp cuối cùng mà tổ chức BHTG tiến hành để bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh hệ thống ngân hàng, giúp củng cố niềm tin người gửi tiền và ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt tại các tổ chức tham gia BHTG. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc chi trả nhanh chóng và chính xác như: Khả năng tiếp cận sớm nguồn dữ liệu tiền gửi; Khả năng xác định quyền lợi của người gửi tiền; Hệ thống công nghệ thông tin; Vốn dùng cho quá trình chi trả; Hình thức tiến hành chi trả; Nguồn nhân lực; Sự phối hợp với các thành viên trong mạng an toàn tài chính...Trong phạm vi giới hạn của bài viết, tác giả xin đề cập đến kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình liên quan tới việc tiếp cận sớm thông tin về tiền gửi và xây dựng kịch bản mô phỏng, chạy thử nghiệm trước khi áp dụng chính thức.
Công tác tiếp cận sớm với nguồn dữ liệu tiền gửi
Tổ chức BHTG thường phải xử lý lượng lớn các tài khoản, chứng từ kế toán trong quá trình trả tiền bảo hiểm. Do vậy, việc có thông tin sớm về thời điểm tổ chức tham gia BHTG bị đóng cửa và liệu có phải chi trả cho người gửi tiền hay không là rất cần thiết. Điều đó không chỉ giúp rút ngắn thời gian chi trả mà còn hạn chế được những sai sót trong quá trình xử lý dữ liệu, tạo lòng tin cho người gửi tiền.
Hiện nay, nhiều các quốc gia trên thế giới yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG phải tuân thủ các định dạng về chứng từ và các ghi chép kế toán liên quan đến đối tượng được bảo hiểm. Các tổ chức BHTG chỉ ra rằng nhu cầu không chỉ là việc tiếp cận với hồ sơ người gửi tiền từ trước, mà còn nhằm đảm bảo công tác kiểm tra hồ sơ sẵn sàng cho thời điểm chi trả.
Hungary là nước có hệ thống BHTG được đánh giá có mô hình chi trả BHTG hiệu quả. Tại Hungary, hoạt động chính của của Quỹ BHTG quốc gia Hungary (NDIF) là chi trả BHTG, vì vậy họ được trao quyền tiếp cận trực tiếp đối với sổ sách về người gửi tiền từ tổ chức thành viên.
Với NDIF, chất lượng dữ liệu và bảo mật thông tin là những vấn đề được đặt lên hàng đầu. Chất lượng của dữ liệu sẽ quyết định toàn bộ thời gian thực hiện chi trả, số người gửi tiền có thể được chi trả nhanh chóng, chi phí phát sinh, uy tín của tổ chức BHTG, tinh thần của nhân viên tham gia... Tất cả các dữ liệu bị mất phải được bổ sung đầy đủ, nếu không việc chi trả sẽ bị sẽ bị trì hoãn. Do vậy, việc kiểm soát chất lượng dữ liệu thường xuyên trước khi ngân hàng bị đóng cửa là rất cần thiết.
Thành lập năm 1996, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) là một trong những tổ chức có nhiều kinh nghiệm trong xử lý khủng hoảng, bảo vệ người gửi tiền và bình ổn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, giống như nhiều tổ chức BHTG trên thế giới, hạn chế của KDIC trong quá trình chi trả là không thể tiếp cận với dữ liệu tiền gửi trước khi đổ vỡ; chất lượng dữ liệu của ngân hàng kém; ngân hàng không thể cung cấp dữ liệu kịp thời; khó bù trừ tiền gửi và tiền vay của người gửi tiền. Vì vậy, trước khi chi trả, KDIC yêu cầu các ngân hàng phá sản gửi thông tin để kiểm tra, bao gồm: Thông tin người gửi tiền, thông tin tiền gửi, tiền vay, tài sản thế chấp, đảm bảo, danh sách các tài khoản có vấn đề. KDIC yêu cầu cung cấp dữ liệu trong vòng 7 ngày và cần 20 ngày để kiểm tra dữ liệu. Sau khi kiểm tra, KDIC và ngân hàng xác nhận dữ liệu lần cuối.
Ngoài việc việc sớm tiếp cận dữ liệu tiền gửi, nhiều tổ chức BHTG cho rằng chất lượng chứng từ kế toán do tổ chức tham gia BHTG cung cấp cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn tới quá trình chi trả hiệu quả. Để đảm bảo chất lượng thông tin về đối tượng được bảo hiểm, tổ chức BHTG yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG phải duy trì hệ thống chứng từ đặc thù. Tại Anh, Cơ quan bồi thường dịch vụ tài chính (FSCS) yêu cầu các ngân hàng thành viên đưa ra được bảng kê về tài khoản tổng hợp của khách hàng (bao gồm các khoản tiền gửi và các khoản nợ phải trả) trong vòng 72 giờ kể từ khi có đề nghị. Ngoài ra, FSCS còn được phép truy vấn các thông tin về đối tượng bảo hiểm bất kỳ khi nào.
Những kinh nghiệm nói trên đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức BHTG được tiếp cận sớm hồ sơ người gửi tiền trước khi chi trả. Điều này giúp tổ chức BHTG nhận biết được các vấn đề về dữ liệu tiềm tàng có thể nảy sinh trong quá trình chi trả, qua đó giúp việc xử lý các vấn đề nhanh hơn, góp phần thúc đẩy quá trình chi trả nhanh chóng và chính xác.
Xây dựng kịch bản mô phỏng và chạy thử nghiệm trước khi áp dụng chính thức
Ngoài khẳng định sự cần thiết của việc sớm tiếp cận thông tin giống như IADI, Ủy ban ổn định tài chính (FSB) khuyến nghị tất cả hệ thống BHTG (đặc biệt là những tổ chức không thường xuyên chi trả) thực hiện các bài tập mô phỏng thường xuyên nhằm đảm bảo tính sẵn sàng và hiệu quả của quá trình chi trả để nâng cao kỹ năng ứng phó khi xảy ra việc chi trả thực tế. Điều này đã được một số quốc gia đánh giá cao và thực hiện nghiêm túc.
Tổng công ty BHTG Malaysia (PIDM) đưa ra kịch bản mô phỏng dựa trên các bối cảnh thực tế, giả định chi trả 2016 dựa trên kịch bản chi trả của ngân hàng ở quy mô trung bình với 5 bước: (i) Tiền kiểm tra: Xem xét tất cả các ngân hàng thành viên trong điều kiện bình thường; (ii) Kiểm tra bước đầu: Xem xét các thành viên có rủi ro cao và đưa vào kế hoạch chi trả; (iii) Trước chi trả: Đảm nhận ngay lập tức trước khi chi trả; (iv) Chi trả cuối tuần: Xác định tổng tiền gửi được bảo hiểm phải chi trả; (v) Quản lý sau chi trả: Theo dõi tiếp các hoạt động sau chi trả.
Theo đó, PIDM xác định rõ các mốc thời gian cho việc giả định chi trả 2016 đảm bảo đầy đủ, chính xác và nhanh nhất. Kế hoạch giả định 2016 được thiết kế để kiểm tra khả năng của PIDM có thể đảm nhận chi trả trong 3 ngày theo kịch bản thực hay không. Quan điểm được đưa ra bởi các nhà quan sát độc lập. Theo PIDM, kịch bản chi trả phải hợp lý, có hệ thống và quy trình cần thiết, có cải tiến để thực hiện chi trả trong 3 ngày.
Trong khi đó, BHTG Singapore (SDIC) chia thực hành mô phỏng làm 2 loại: Thực hành mô phỏng 2 năm 1 lần và thực hành mô phỏng hàng năm. Mục đích của thực hành mô phỏng 2 năm 1 lần là để kiểm tra quy trình và thủ tục chi trả từ đầu tới cuối của SDIC trong một sự kiện chi trả mô phỏng, với sự tham gia của một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore (MAS), SDIC và các đại lý chi trả khác. Thực hành mô phỏng hàng năm là để kiểm tra mức độ sẵn sàng cho việc chi trả tiền bảo hiểm của tất cả các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Có 3 cấp độ thực hành mô phỏng để thực hiện cho mỗi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, cụ thể:
+ Cấp độ 1: Kiểm tra việc tuân thủ của các tổ chức tham gia BHTG với quy định của SDIC về: Mã hóa dữ liệu và truyền dữ liệu; Bộ thông tin dữ liệu thu thập và cấu trúc, định dạng của dữ liệu; Khung thời gian truyền dữ liệu về SDIC.
+ Cấp độ 2: Kiểm tra số dư tài khoản khách hàng do tổ chức tham gia BHTG cung cấp có phù hợp với sổ cái tổng hợp theo quy định của SDIC không?; Kiểm tra mã sản phẩm tiền gửi có phù hợp với sổ tiền gửi được bảo hiểm đã đăng ký theo quy định của SDIC không?
+ Cấp độ 3: Kiểm tra tính đầy đủ của thông tin do tổ chức tham gia BHTG cung cấp; Kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG có tuân thủ quy định về mã hóa thông tin của khách hàng theo quy định của SDIC không?
Các tổ chức tham gia BHTG sẽ được xếp hạng là “Qua” hoặc “Không qua” theo mức độ tuân thủ của họ với các yêu cầu của SDIC.
Có thể nói từ bài tập tình huống giả định, tổ chức BHTG sẽ rút ra nhiều bài học kinh nghiệm, đề ra những giải pháp để cải thiện và giải quyết tốt hơn các vấn đề phát sinh, phát huy hiệu quả việc sử dụng nguồn nhân lực. Đồng thời, các bài tập tình huống và kết quả rút ra có thể được công khai với mục đích đóng góp vào sự ổn định hệ thống tài chính, gây dựng hình ảnh và thương hiệu niềm tin vào tổ chức BHTG cũng như khẳng định cam kết bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Một số đề xuất đối với Việt Nam
Để có thể thiết lập một quy trình chi trả hiệu quả phù hợp với điều kiện hiện tại của Việt Nam, BHTGVN cần nghiên cứu và ứng dụng tốt nhất các kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt công tác chuẩn bị trước khi chi trả cần được chú trọng và chủ động hơn. Việc thực hiện các bài tập mô phỏng thường xuyên, việc yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG duy trì hệ thống mẫu biểu thông tin báo cáo tại tổ chức tham gia BHTG cũng như thường xuyên kiểm tra những thông tin này sẽ giúp BHTGVN chủ động, đảm bảo tính sẵn sàng trước khi phát sinh nghĩa vụ chi trả BHTG.
Theo Khoản 6 Điều 12 Luật BHTG quy định “Tổ chức tham gia BHTG cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm cho tổ chức BHTG theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của tổ chức BHTG” và Khoản 5 Điều 13 quy định “Tổ chức bảo BHTG được quyền yêu cầu tổ chức tham gia BHTG cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm”. Do vậy, việc ban hành một văn bản quy định việc thu thập thông tin về tiền gửi được bảo hiểm trực tiếp từ các tổ chức tham gia BHTG phù hợp với điều kiện hiện tại của Việt Nam và ứng dụng tốt nhất các kinh nghiệm quốc tế là cần thiết. Đặc biệt, trong đó cần yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG phải duy trì hệ thống mẫu biểu thông tin báo cáo tại tổ chức tham gia BHTG để chủ động khi phát sinh nghĩa vụ chi trả BHTG.
Ngoài ra, thực tế BHTGVN không chi trả bảo hiểm tiền gửi thường xuyên và mới chỉ chi trả cho các Quỹ tín dụng nhân dân quy mô nhỏ đổ vỡ. Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng kịch bản chi trả mô phỏng và tập dượt trước khi áp dụng chính thức có ý nghĩa quan trọng. Qua các bài tập dượt, BHTGVN sẽ chuẩn bị tốt hơn các công việc sẵn sàng trước khi thực hiện quá trình chi trả, qua đó luôn đảm bảo rằng nguồn nhân lực tham gia vào nghiệp vụ chi trả phải được đào tạo đầy đủ, có đủ kiến thức, am hiểu về luật pháp; hệ thống chi trả trên nền tảng công nghệ có đủ khả năng và chức năng ứng phó với các tình huống thực tế có thể nảy sinh trong suốt quá trình chi trả.
Hoàng Ánh Ngọc
Nguyễn Quỳnh Liên