Cho vay là hoạt động luôn tiềm ẩn rủi ro, có khả năng xảy ra tổn thất đối với bên cho vay khi bên đi vay không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết.
Đối với các TCTD, cho vay là hoạt động chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho các TCTD, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể gây ra những tổn thất tài chính nặng nề nếu không có biện pháp kiểm soát rủi ro phù hợp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro khi cho vay, bao gồm nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Mặc dù các TCTD có quyền từ chối đối tượng khách hàng có tín nhiệm thấp hay ngành nghề có rủi ro cao, nhưng hoạt động cho vay của TCTD vẫn luôn tiềm ẩn rủi ro nếu khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ, cố tình lừa đảo để chiếm dụng vốn ngân hàng hay khả năng quản lý, hoạch định chiến lược kinh doanh của khách hàng yếu kém ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. Suy thoái kinh tế, ảnh hưởng của các chính sách, thiên tai, dịch bệnh cũng sẽ tác động đến tình hình kinh doanh, tài chính của khách hàng vay vốn dẫn đến không trả được nợ cho ngân hàng…. Có thể thấy, mặc dù đối tượng cho vay của các TCTD là những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt hoặc tín nhiệm cao, nhưng vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nếu quản trị rủi ro không tốt sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, hoạt động kinh doanh của TCTD bị thua lỗ, thậm chí dẫn tới phá sản. Do đó, quản trị rủi ro đối với hoạt động cho vay là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Rủi ro đối với BHTGVN khi cho vay đặc biệt
Khác với các TCTD, BHTGVN là tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Theo quy định tại Thông tư số 08/2021/TT-NHNN ngày 06/7/2021 (Thông tư số 08), BHTGVN có thể cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi đến mức 0%, nhằm hỗ trợ các TCTD được KSĐB thực hiện phương án cơ cấu lại, qua đó gián tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Mặc dù không chịu áp lực về lãi suất hoặc thu nhập từ hoạt động cho vay, nhưng hoạt động cho vay đặc biệt của BHTGVN tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
Về đối tượng cho vay, trong khi các TCTD có quyền lựa chọn đối tượng, ngành nghề cho vay, từ chối những đối tượng khách hàng có tín nhiệm thấp hay ngành nghề có rủi ro cao, thì BHTGVN chỉ có thể cho vay đối với TCTD yếu kém được KSĐB. Khả năng TCTD không thực hiện phương án cơ cấu lại thành công, không phục hồi được hoạt động kinh doanh có thể dẫn đến giải thể hoặc phá sản, do đó, nguy cơ BHTGVN không thu hồi được vốn khi cho vay là cao. Ngoài ra, cho vay đặc biệt còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức, khi các TCTD được tiếp nhận vốn từ BHTGVN có thể sử dụng vốn sai mục đích, đầu tư vào hoạt động rủi ro với hy vọng sớm phục hồi hoạt động kinh doanh.
Về tài sản đảm bảo của hoạt động cho vay đặc biệt, cũng giống như các TCTD, khi cho vay đặc biệt các khoản vay phải có tài sản bảo đảm. Theo quy định tại Thông tư số 08 và quy định nội bộ của BHTGVN, bên đi vay phải có tài sản bảo đảm khi tiếp cận với khoản cho vay đặc biệt, tài sản bảo đảm có thể là giấy tờ có giá, quyền đòi nợ, quyền tài sản là khoản lãi phải thu phát sinh từ các khoản cấp tín dụng tùy từng trường hợp vay cụ thể. Đối với cho vay theo phương án phục hồi đã được phê duyệt, tài sản bảo đảm cho khoản vay đặc biệt thực hiện theo phương án phục hồi đã được phê duyệt. Thực tế cho thấy, phần lớn khoản cho vay của TCTD được KSĐB là nợ quá hạn, nợ xấu, các khoản nợ còn lại đủ điều kiện thế chấp trong quá trình cho vay có thể suy giảm giá trị, chuyển nợ quá hạn không còn đủ điều kiện để thế chấp. Ngoài ra, các khoản cho vay của các TCTD, đặc biệt là quỹ tín dụng nhân dân, thủ tục cho vay (ký kết hợp đồng tín dụng, công chứng hợp đồng thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm, …) có thể chưa được thực hiện đúng quy định. Có thể thấy, khi cho vay đặc biệt nhiều khả năng khoản vay sẽ không có tài sản bảo đảm, hoặc nếu có chỉ có thể là quyền đòi nợ, và việc xử lý quyền đòi nợ này cũng rất khó khăn cho BHTGVN khi thực hiện xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay.
Ngoài ra, về cơ chế xử lý tổn thất đối với hoạt động cho vay đặc biệt còn nhiều vấn đề đặt ra. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm 2017 quy định, trong trường hợp BHTGVN cho vay đặc biệt theo phương án phục hồi đã được phê duyệt, BHTGVN được hạch toán giảm Quỹ dự phòng nghiệp vụ để xử lý số tiền cho vay đặc biệt không thu hồi được. Thông tư số 20/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định: (i) BHTGVN không thực hiện trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi đối với các khoản cho vay đặc biệt, (ii) BHTGVN báo cáo Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định sử dụng Quỹ dự phòng nghiệp vụ để bù đắp tổn thất trong trường hợp số dư của khoản thu nhập từ các khoản cho vay đặc biệt không đủ bù đắp tổn thất. Tuy nhiên, quy trình thực hiện như thế nào chưa được quy định cụ thể.
Kinh nghiệm quốc tế
Theo kết quả khảo sát thường niên của IADI năm 2022 đối với 108 tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG) trên thế giới, chỉ có 8/108 quốc gia sử dụng công cụ hỗ trợ tài chính (Open Bank Assistance - OBA), trong đó có biện pháp cho vay để xử lý TCTD có vấn đề. Có thể thấy, khi lựa chọn công cụ để xử lý các TCTD có vấn đề, hỗ trợ tài chính không phải là công cụ ưu tiên được các quốc gia lựa chọn. Nguyên nhân là do phương pháp này có thể tạo ra rủi ro đạo đức một cách nghiêm trọng, chi phí lớn và không xử lý được gốc rễ của vấn đề. Theo bài nghiên cứu “Lý luận cơ bản về rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng” đăng trên website sbv.gov.vn, cho thấy rủi ro đạo đức của các TCTD có vấn đề nảy sinh từ chính sự hậu thuẫn của Chính phủ nhằm cứu giúp các TCTD lớn thoát khỏi sự sụp đổ khi đã mất khả năng thanh toán, nhằm duy trì niềm tin của công chúng đối với hoạt động ngân hàng, đây là một yếu tố khiến các tổ chức này thực hiện các hành vi đầu tư ẩn chứa rủi ro đạo đức.
Từ năm 1992 đến 2010, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) có sử dụng biện pháp hỗ trợ tài chính nhưng rất hạn chế. Sau khi Luật Dodd-Frank (2010) ra đời đã chính thức loại bỏ biện pháp này khỏi các lựa chọn xử lý mà FDIC được phép áp dụng. Nhật Bản hay Hàn Quốc là quốc gia có tổ chức BHTG phát triển đang áp dụng biện pháp này. Về cơ bản, các quy định pháp luật về hỗ trợ tài chính rất khắt khe, thường chỉ được giới hạn áp dụng trong các trường hợp đặc biệt. Tại Nhật Bản, Tổng công ty BHTG Nhật Bản (DICJ) sẽ bơm vốn hoặc hỗ trợ tài chính với số tiền vượt chi trả bảo hiểm trong trường hợp Thủ tướng xác định việc tổ chức tài chính đổ vỡ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tín dụng Nhật Bản.
Tại Hàn Quốc, Tổng công ty BHTG Hàn Quốc (KDIC) hỗ trợ tài chính cho tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán trong trường hợp KDIC cho rằng việc cải thiện cơ cấu tài chính của tổ chức tài chính là cần thiết để bảo vệ người gửi tiền và ổn định hệ thống tín dụng. Ngoài ra, KDIC còn hỗ trợ tài chính để việc sáp nhập của tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán có thể được thực hiện suôn sẻ hoặc trường hợp Ủy ban Dịch vụ Tài chính đưa ra yêu cầu. Bên cạnh đó, DICJ và KDIC dựa trên nguyên tắc chi phí tối thiểu để quyết định chi trả hay hỗ trợ tài chính. Trường hợp chi phí thực hiện phương án hỗ trợ tài chính được xác định là cao hơn các phương án khác thì phương án hỗ trợ tài chính sẽ không được chọn. Ngoài sử dụng nguyên tắc chi phí tối thiểu, KDIC còn áp dụng nguyên tắc chia sẻ tổn thất công bằng và nguyên tắc tự lực cánh sinh. Cụ thể, theo nguyên tắc chia sẻ tổn thất công bằng, KDIC sẽ hỗ trợ tài chính với điều kiện người chịu trách nhiệm về tình trạng mất khả năng thanh toán của công ty tài chính được bảo hiểm phải chia sẻ mọi tổn thất một cách công bằng (bao gồm cổ đông, người quản lý, nhân viên). Cổ đông chịu trách nhiệm thông qua việc giảm vốn. Người quản lý và nhân viên chịu tác động bởi chính sách cắt giảm nhân sự, không tăng lương. Nguyên tắc tự lực cánh sinh, KDIC và tổ chức tiếp nhận hỗ trợ tài chính ký Bản ghi nhớ về Bình thường hóa hoạt động tổ chức. Theo đó, KDIC có quyền rà soát và đánh giá tình hình quản lý của tổ chức và thực hiện các hành động khắc phục.
Đề xuất, kiến nghị
Có thể thấy, hoạt động cho vay đặc biệt của BHTGVN tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ không thu hồi được vốn cho vay là rất cao. Do đó, cần có những biện pháp giúp hạn chế, ngăn ngừa rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế trong quá trình BHTGVN thực hiện hoạt động cho vay đặc biệt. Xin đề xuất một số kiến nghị về hoạt động cho vay đặc biệt của BHTGVN như sau:
Về đối tượng cho vay, BHTGVN được phép và ưu tiên cho vay đối với TCTD lành mạnh nhận sáp nhập, tiếp nhận TCTD yếu kém, TCTD hỗ trợ thực hiện phương án cơ cấu lại. Trong trường hợp cho vay TCTD yếu kém được KSĐB, TCTD phải được cấp có thẩm quyền xác nhận khi các TCTD này đổ vỡ ảnh sẽ hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tài chính bằng những tiêu chí cụ thể.
Hạn mức cho vay (hỗ trợ tài chính) của BHTGVN đảm bảo nguyên tắc chi phí tối thiểu, tổng số tiền cho vay (hỗ trợ tài chính) tối đa không vượt quá số tiền chi trả bảo hiểm theo hạn mức trả tiền bảo hiểm theo từng thời kỳ.
Các khoản cho vay đặc biệt phải có tài sản bảo đảm trong mọi trường hợp. Việc định giá tài sản bảo đảm phải được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách để giúp BHTGVN có thể thu hồi được vốn vay khi TCTD không trả được nợ, BHTGVN có thể xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
BHTGVN cần tăng cường kiểm tra, giám sát sau cho vay nhằm phát hiện những sai phạm của TCTD trong việc sử dụng vốn, tránh trường hợp TCTD sử dụng vốn vay sai mục đích. Ngoài ra, việc giám sát sau cho vay giúp BHTGVN phát hiện kịp thời trường hợp tài sản bảo đảm suy giảm giá trị, không còn đủ điều kiện bảo đảm cho khoản vay và có biện pháp yêu cầu TCTD thay thế, bổ sung tài sản bảo đảm phù hợp.
Về cơ chế xử lý tổn thất, BHTGVN được quyền và chủ động trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro hoặc sử dụng Quỹ dự phòng nghiệp vụ để xử lý tổn thất trong trong trường hợp chậm hoặc không thu hồi được vốn cho vay. Ngoài ra, cần có quy định miễn trách nhiệm đối với BHTGVN và cán bộ thực hiện cho vay đặc biệt khi thực hiện theo đúng các quy định pháp luật và quy định của BHTGVN mà bên đi vay vẫn chậm hoặc không trả được nợ.